Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là gì

Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ là gì

 Quyền sở hữu trí tuệ thường bị xâm phạm khi mọi người tạo ra nội dung mà không được phép. Điều này đặc biệt đúng với Internet, nơi có thể dễ dàng tạo nội dung mà không có bất kỳ ảnh hưởng pháp lý nào. Các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ:

 – Hành vi xâm phạm quyền tác giả

 – Hành vi xâm phạm quyền liên quan

 – Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí

 – Hành vi xâm phạm đối với bí mật kinh doanh

 – Hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý

Ví dụ về vi phạm quyền sở hữu trí tuệ

 Một số ví dụ:

 – Nhà xuất bản in, tái bản sách chưa được tác giả đồng ý

 – Ca sĩ biểu diễn, ghi âm, thu hình bài hát mà chưa được nhạc sĩ sáng tác cho phép.

 – Các bộ phim quay lén trong rạp, và tự ý in ra đĩa

 – Các phần mềm crack máy tính

Mẫu thư cảnh báo vi phạm sở hữu trí tuệ

 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 Độc lập – Tự do – Hạnh Phúc

 THƯ THÔNG BÁO

 (V/v : thông báo, cảnh báo vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ)

  

 Kính gửi : Qúy công ty…

 Tôi là : Đại diện công ty…

 Điện thoại  :                                                  Fax:

 Email :                                                           Website:

 Chúng tôi (tên công ty) xin gửi lời chào đến quý công ty. Qua trao đổi với đại diện bên quý vị chúng tôi được biết quý công ty đang sử dụng thương hiệu mà chúng tôi đã đăng ký và được cấp giấy sở hữu trí tuệ.

 Dưới đây là một số nét chính quan trọng liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ:

 Thứ nhất, việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ về nhãn hiệu và thương hiệu đã được đăng ký:

 Theo điều 11 Nghị định 105/2006/NĐ-CP

 Điều 11. Yếu tố xâm phậm quyền đối với nhãn hiệu

 1.Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là dấu hiệu gắn trên hang hóa, bao bì hang hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được bảo hộ.

 2. Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu, gồm mẫu nhãn hiệu và danh mục hàng hóa, dịch vụ được xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam.

 3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả hai điều kiện sau đây:

 a, Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày(kể cả màu sắc); một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hoàn toàn trùng nhau hoặc tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm phiên âm đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho ngườ tiêu dung về hang hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;

 b, Hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, công dụng và có cùng kênh tiêu thụ với hang hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.

 4. Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là yếu tố xâm phạm nếu:

 a, Dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện quy định tại điểm a khoản 3 Điều này;

 b, Hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ đáp ứng điều kiện quy định tại điểm b khoản 3 điều này hoặc hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự, không lien quan tới hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự, không lien quan tới hàng hóa, dịch vị mang nhãn hiệu nổi tiếng nhưng có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dung về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

 5. Trường hợp sản phẩm dịch vụ mang dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với nhãn hiệu được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng thuộc loại phạm vi bảo hộ thì bị coi là hang hóa giả mạo nhãn hiệu theo quy định tại điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ.

 (Như vậy dựa vào nội dung của Điều 11 Nghị định 105/2006/NĐ-CP nêu trên thì mong quý công ty có thể hiểu và phân tích rõ nội dung vi phạm sử dụng thương hiệu trong trường hợp của quý công ty)

 Thứ hai, về mức và hình thức sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ, được quy định tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

 Nghị định này quy định về các hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; thủ tục nộp đơn yêu cầu xử lý vi phạm; thẩm quyền, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu xử lý vi phạm; thẩm quyền xử phạt và thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.

 Mức tiền phạt tối đa đối với cá nhân là 250.000.000. Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần mức phạt tiền đối với các nhân. Mức phạt tiền tối tối đa với tổ chức là 500.000.000 đồng.

 Như vậy chúng tôi muốn thông báo rằng Qúy công ty đã vi phạm sử dụng thương hiệu mà công ty chúng tôi đã đăng ký và đã được cấp giấy sở hữu trí tuệ. Mong quý công ty có những điều chỉnh hợp lý để tránh tổn thất cho cả hai bên công ty.

 Trân trọng !

 ….., ngày….tháng….năm….

 Chữ ký

Một trong các vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nổi bật

 Theo đơn kiện, ngày 26-1-2015, VinaAcecook phát hiện sản phẩm mì gói Hảo Hạng của Asia Foods có kiểu dáng thiết kế bao bì tương đồng sản phẩm mì gói Hảo Hảo, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Sau đó, Acecook gửi công văn khuyến cáo Asia Foods về hành vi vi phạm nhãn hiệu.

 

 Sau khi xem xét, TAND tỉnh Bình Dương tuyên Asia Foods có hành vi xâm phạm về sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm mì gói Hảo Hảo của Acecook. Sau bản án này, nguyên đơn kháng cáo, yêu cầu tăng tiền bồi thường, còn bên bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

  

  

  

  

  

  

  

  

 Tag: ở thực trạng tội